Multimedia Đọc Báo in

Ký ức bên đồi cỏ non

08:12, 04/07/2021

Từ TP. Buôn Ma Thuột, tôi về huyện Krông Bông, đi qua những xóm làng trong mùa nương rẫy. Sau cơn mưa, những tia nắng chiều rực sáng bên đồi cỏ xanh non tơ, như tô thêm vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng, làm người ta luôn nhớ về một miền ký ức.

Hơn 45 năm, tôi về lại miền quê xưa bên dòng Krông Kmar – Khuê Ngọc Điền, nơi mà những ngày đầu khi đất nước được giải phóng năm 1975, những người con Quảng Nam – Đà Nẵng lên Tây Nguyên xây dựng vùng kinh tế mới.

Mùa đông năm 1975, khi đó tôi 16 tuổi, khăn gói cùng ba để vào Tây Nguyên lập nghiệp, mẹ tôi thì ở lại quê nhà vì đang là công chức nhà nước. Năm ấy, không chỉ quê tôi xã Kỳ Hòa, huyện Tam Kỳ mà còn có nhiều người dân ở các xã, huyện khác của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, theo tiếng gọi của Đảng, Nhà nước lên Tây Nguyên để xây dựng vùng kinh tế mới. Đây là đợt di dân đầu tiên của nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và cả nước sau năm 1975 lên Tây Nguyên. Mùa đông năm 1975 trời lạnh, cái lạnh mà cho đến tận bây giờ ở miền Nam tôi vẫn chưa thấy, sau này tìm hiểu thì năm đó đạt mức lạnh mà cơ quan Khí tượng thủy văn đã ghi vào mốc lịch sử thời tiết miền Trung – Tây Nguyên: dưới 13 độ C.

Sau ba ngày gập ghềnh rong ruổi, chiều tối ngày 19-12-1975, đoàn xe chở những người đi xây dựng kinh tế mới của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã đến điểm dừng. Lúc ấy vì mệt do đi đường xóc ổ gà, đói, lạnh nên khi bước xuống xe nhiều người thấy nao lòng trong không gian núi rừng và tiếng chim bồ chao kêu vang bên đồi le cùng với tiếng người gọi nhau ơi ới, rồi tiếng khóc của ai đó…

Toàn cảnh trung tâm  huyện Krông Bông.
Toàn cảnh trung tâm huyện Krông Bông.

Tôi lặng lẽ theo chân ba và đoàn người đi về một ngôi làng bên kia sông. Trời mưa lạnh, nhưng tất cả phải lội qua một dòng suối lớn có tên gọi Krông Kmar để đến trú tạm tại các gia đình dân cũ (đây là những gia đình người Quảng Nam - Đà Nẵng di cư thời Ngô Đình Diệm từ năm 1959. Đến năm 1965 xã Khuê Ngọc Điền được giải phóng và họ là những người dân vùng căn cứ cách mạng kiên cường của tỉnh Đắk Lắk trong suốt những năm chiến tranh).

Vì đông người nên chúng tôi chia nhau cứ 3, 4 hộ thì bố trí ở một nhà dân. Tôi nhớ đợt đầu tiên lúc đó có trên 300 hộ - cả người và nhu yếu phẩm được chở trên 15 chiếc xe ca và xe tải. Nhà nước cấp chăn màn, gạo (cấp 6 tháng ăn cho từng nhân khẩu), thực phẩm đường, sữa, thịt, nước mắm (cấp theo tem phiếu); còn lại thì bà con tự hái rau rừng, măng tre, cá dưới sông, bàu về ăn.

Đêm đầu tiên lạnh buốt. Những người lớn nhớ nhà, nhớ quê cùng ngồi lại với nhau ở một nơi xa lạ. Họ đốt lửa sưởi ấm và miên man về tương lai. Anh Sáu Hữu (Bùi Thế Hữu), trưởng đoàn và ba tôi là người cùng làng cũng ngồi suốt đêm không ngủ với bao điều âu lo. Họ là những người làm cơ sở hoạt động cách mạng, niềm vui ngày giải phóng chưa được bao lâu thì lại phải xa quê. Được sự tiếp đón nồng hậu và sẻ chia tình cảm, kinh nghiệm sống của bà con cư dân cũ về vùng đất, con người nơi đây nên phần nào những người mới đến cũng thấy ấm lòng, yên tâm hơn.

Sau hai ngày tạm nghỉ, theo sự chỉ đạo của Ban Kinh tế mới bà con bắt đầu hình thành tổ lao động theo xã (cũ) và chia nhau từng khu vực nhận đất phát dọn mặt bằng, chặt cây, cắt tranh, dựng lán trại ăn, ở tập thể. Khi đã ổn định chỗ ở tạm, các tổ tiếp tục phát quang các khu rừng cây tre, le để chọn đất làm nhà cho từng hộ gia đình.

Có thể nói ngày xưa khu vực dọc theo triền núi Chư Yang Sin từ Hòa Sơn, Khuê Ngọc Điền, Hòa Lễ, về 3 xã Yang Mao, Cư Pui, Cư Drăm là cả một vùng rừng tự nhiên với nhiều tầng cây từ sao, chò, bằng lăng, cầy, tre, le và dưới cùng là cỏ tranh và bụi dây leo. Cứ mỗi sáng từng đàn chim bồ chao (Chơ rao), chim dồn dột, áo già, chim két… từ những rừng le, đồng cỏ lau sậy kêu vang trời mà tôi chưa thấy ở đâu nhiều chim như thế. Đặc biệt ở các sông, bàu các loại cá tràu (lóc), cá trê, lươn, ếch, sò dộp nhiều vô kể. Cùng với đó thì các loại rau dềnh, mồng gà, “tàu bay”, măng tre, le cứ ra rừng là hái vô làm thức ăn.

"Xóm núi" ngày nay (thôn 9, xã Khuê Ngọc Điền).

Năm ấy, tất cả bà con chúng tôi đón cái Tết đầu tiên của ngày hòa bình trên quê hương mới. Mỗi người một quê, mỗi người một làng xã khác nhau nhưng giờ đã trở thành làng xóm, thành quê hương mới trên miền đất này. Đêm 30 Tết chúng tôi cùng ngồi lại với nhau quanh bếp lửa, thưởng thức những món quà xuân của bà con cư dân cũ, rồi cùng đàn hát cho nhau nghe thật ấm áp nghĩa tình. Khuê Ngọc Điền đã trở thành quê hương!

Những ngày Tết rồi cũng qua đi. Bà con tiếp tục phát dọn, chặt cây làm nhà để đón lao động phụ từ quê vào, cùng với đó là việc khai hoang cánh đồng lúa nước buôn Tít, phát rẫy trỉa hạt cánh đồng Lò Lư và cánh đồng bên sông Krông Ana… Vụ mùa đầu tiên năm ấy lúa nước, lúa rẫy, đậu xanh, đậu đen, bắp, bầu bí… cây gì cũng xanh tốt được mùa. Bà con vô cùng phấn khởi, yên tâm trên miền quê mới. Đầu năm 1976, Nhà nước xây dựng trường học, trạm y tế, cửa hàng thương nghiệp và sau đó là xây cầu sắt qua suối Krông Kmar, cầu chữ V bắc qua sông Krông Ana… và tiếp tục đưa dân vào.

Cuối năm 1976, tôi về quê đi học. Mãi đến những năm sau này khi công tác tại Đắk Lắk, tôi mới có dịp về lại Krông Bông. Hơn 45 năm, đi qua miền thương nhớ một thời tuổi xanh đặt chân lên miền đất mới. Về lại “xóm núi” của Khuê Ngọc Điền ngày xưa, giờ đã có nhiều thay đổi, ruộng đồng phì nhiêu, làng xóm yên bình của một nông thôn mới…

45 năm, dù thời gian chưa xa nhưng cũng đủ làm nên kỷ niệm giữa đất và người của biết bao thế hệ đã phấn đấu không ngừng trong suốt chặng đường hơn 45 năm kể từ ngày dựng làng lập xóm bên dãy Chư Yang Sin hùng vĩ.

Từ tháng 10-1975, Đắk Lắk tiếp nhận đợt đầu tiên với 34.000 người dân hai tỉnh Bình Trị Thiên và Quảng Nam - Đà Nẵng lên lập nghiệp trên 6 điểm khác nhau tại các địa phương của tỉnh; trong đó riêng xã Khuê Ngọc Điền có hơn 1.000 hộ, với hơn 3.000 nhân khẩu. Đến cuối năm 1977 toàn tỉnh đã tiếp nhận hơn 45.000 nhân khẩu. Đây là lực lượng lao động quan trọng, nhằm góp phần phát triển nền nông nghiệp rộng lớn của tỉnh Đắk Lắk trong những năm sau này.

Ghi chép của Cao Bằng